Hạ tầng số ở Gia Lai: Từ ‘phủ sóng kết nối’ đến nền tảng phát triển kinh tế số

Trong bức tranh chuyển đổi số quốc gia, Gia Lai đang cho thấy một cách đi riêng: thận trọng, bài bản và bền bỉ, lấy hạ tầng số làm nền móng, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.


Từ một địa phương miền núi từng được xem là “vùng trũng” về kết nối, Gia Lai đã phủ cáp quang đến 100% xã, độ phủ sóng di động và băng rộng di động đạt 100% tại các trung tâm xã, phường và 99,9% tại các thôn, làng. Mạng 5G đã được triển khai bước đầu tại các khu vực trung tâm với 167 trạm thu, phát sóng, phủ sóng 17% khu vực có dân cư sinh sống. Tổng số trạm BTS trên toàn tỉnh hiện có là 8.828 trạm.


Trên nền hạ tầng đó, tỉnh đồng thời thúc đẩy chính quyền số, kinh tế số và xã hội số: 100% doanh nghiệp dùng hóa đơn điện tử, thương mại điện tử lan tỏa đến từng hộ sản xuất nông nghiệp, địa chỉ số quốc gia và tổ công nghệ số cộng đồng trở thành “cầu nối” đưa dịch vụ số đến tận buôn làng.


Không dừng lại ở “phủ sóng”, Gia Lai đang chuyển mạnh sang “khai thác”, biến kết nối số thành công cụ mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và tái cấu trúc mô hình tăng trưởng. Câu chuyện chuyển đổi số tại Gia Lai vì thế không chỉ là bài toán công nghệ, mà là hành trình xây dựng nền tảng phát triển kinh tế số bền vững cho một tỉnh miền núi nhiều tiềm năng.


image001 (36).jpg
Sản phẩm nông sản của Gia Lai được tiêu thụ trên các sàn điện tử. Ảnh TT

Gia Lai có lợi thế “đi trước” trong phát triển khoa học, công nghệ


Phát biểu về định hướng phát triển, ông Phạm Anh Tuấn, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, cho biết Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực then chốt cho tăng trưởng kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Với Gia Lai, nghị quyết này không chỉ là kim chỉ nam, mà còn củng cố một định hướng đã được tỉnh theo đuổi từ sớm.


Theo ông Phạm Anh Tuấn, Gia Lai có lợi thế “đi trước” các địa phương khác gần một giai đoạn, khi đã sớm xác định khoa học - công nghệ là nhiệm vụ trọng tâm. Một trong những dấu ấn tiêu biểu là việc hình thành Khu đô thị khoa học Quy Hòa, với Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành (ICISE) làm hạt nhân, tạo không gian kết nối các nhà khoa học trong và ngoài nước.


“Gia Lai lấy khoa học, công nghệ làm nòng cốt để phát triển, nên nguồn lực dành cho lĩnh vực này là không giới hạn. Trung ương hiện cũng cho phép mời gọi chuyên gia nước ngoài với cơ chế rất đặc biệt, đây là cơ hội lớn để địa phương bứt phá”, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai nhấn mạnh.


Tư duy coi khoa học - công nghệ và chuyển đổi số là nền tảng chiến lược đã tạo tiền đề quan trọng để Gia Lai đầu tư hạ tầng số không chỉ nhằm phục vụ quản lý nhà nước, mà còn hướng đến mục tiêu dài hạn: hình thành nền kinh tế số có khả năng tự nuôi dưỡng và lan tỏa.


Nền tảng số mở rộng thị trường, thay đổi tư duy kinh doanh nông nghiệp


Chuyển đổi số tại Gia Lai không dừng ở các con số hạ tầng, mà thể hiện rõ nhất qua sự thay đổi trong cách làm ăn của người dân.


Ở thôn Mỹ Thạch 3, sản phẩm cà phê sạch mang thương hiệu Thanh Thúy trước đây chủ yếu được bán trong phạm vi địa phương. Chủ cơ sở, bà Hoàng Thị Thúy, từng quen với cách bán hàng truyền thống, dựa vào mối quen và khách vãng lai.


Bước ngoặt đến khi bà nhận ra xu hướng tiêu dùng đang dịch chuyển mạnh lên không gian số. Bà bắt đầu học cách bán hàng trên Zalo, Facebook, từ việc đăng sản phẩm, trả lời tin nhắn đến chụp ảnh, quay video giới thiệu quy trình rang xay. Những mẻ cà phê đầu tiên bán qua mạng đã mở ra một hướng đi hoàn toàn mới, đưa sản phẩm từ một cơ sở nhỏ ở Gia Lai đến với người tiêu dùng tại nhiều tỉnh, thành.


Câu chuyện tại làng Ó cũng phản ánh sức mạnh của nền tảng số. Chị Phạm Thị Bình, khởi nghiệp với các sản phẩm bột chuối xanh, trà sả, trà mãng cầu, từng loay hoay tìm đầu ra khi sản lượng tăng. Khi đưa sản phẩm lên Shopee, TikTok Shop và duy trì tương tác trên mạng xã hội, các video giới thiệu giản dị nhưng chân thực đã giúp chị tiếp cận lượng khách hàng lớn hơn nhiều so với kênh truyền thống. Mỗi đơn hàng trực tuyến không chỉ mang lại doanh thu, mà còn củng cố niềm tin để chị mở rộng quy mô sản xuất.


Ở quy mô bài bản hơn, nhiều cơ sở cà phê tại Gia Lai đã ứng dụng công nghệ vào quản lý chất lượng. Tại xã Trà Đa, anh Trần Quốc Tiến đầu tư sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hướng hữu cơ, đồng thời triển khai mã QR Code truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm Thân Coffee. Việc minh bạch thông tin về vùng trồng, quy trình chế biến giúp sản phẩm tạo dựng niềm tin, ổn định sản lượng tiêu thụ khoảng 4 tấn cà phê rang xay mỗi năm.


Những ví dụ này cho thấy, chuyển đổi số đang từng bước thay đổi tư duy kinh doanh nông nghiệp tại Gia Lai: từ sản xuất “có gì bán nấy” sang chủ động xây dựng thương hiệu, tiếp cận thị trường và lắng nghe phản hồi của người tiêu dùng.


Công nghệ số nâng chất lượng, tạo nền tảng cho sản xuất bền vững


Không chỉ các hộ sản xuất cá thể, nhiều hợp tác xã (HTX) tại Gia Lai cũng nhanh chóng nắm bắt xu hướng thương mại điện tử. HTX Nam Yang là một trong những đơn vị tiên phong khi đầu tư gian hàng trực tuyến, áp dụng truy xuất nguồn gốc và sử dụng livestream để giới thiệu sản phẩm. Mỗi buổi phát trực tiếp đều thu hút lượng tương tác lớn, giúp sản phẩm vượt ra khỏi phạm vi huyện, tỉnh.


Tại Ia Grai, HTX Mật ong Phương Di ghi nhận hơn 55.600 sản phẩm bán ra qua TikTok Shop - con số cho thấy sức bật của kênh bán hàng số so với cách bán truyền thống trước đây. Với các sản phẩm OCOP 4 - 5 sao như cà phê, mật ong, hồ tiêu, mắc ca, Gia Lai có lợi thế lớn khi đưa lên môi trường trực tuyến, nơi chất lượng và câu chuyện sản phẩm được truyền tải trực tiếp tới người tiêu dùng.


Việc kết hợp giữa chất lượng thật và cách tiếp cận thị trường hiện đại giúp các sản phẩm nông nghiệp Gia Lai không chỉ mở rộng đầu ra trong nước, mà còn từng bước hướng tới xuất khẩu thông qua các nền tảng số.


Điểm đáng chú ý là chuyển đổi số tại Gia Lai không chỉ giúp “bán được hàng”, mà còn thúc đẩy nâng cao chất lượng sản xuất. Khi tham gia thị trường trực tuyến, nông dân và HTX buộc phải chú trọng hơn đến bao bì, nhãn mác, quy trình chế biến và cách kể câu chuyện sản phẩm. Những yếu tố này giúp gia tăng giá trị và xây dựng hình ảnh nông sản Gia Lai sạch, minh bạch, đáng tin cậy.


Thông qua phản hồi, đánh giá trực tuyến, người sản xuất dễ dàng nắm bắt nhu cầu thị trường, từ đó điều chỉnh cách làm. Với các HTX, dữ liệu bán hàng trở thành công cụ để dự báo nhu cầu, cân đối nguyên liệu, hạn chế tình trạng sản xuất ồ ạt và phụ thuộc thương lái. Chuỗi giá trị sản xuất - chế biến - tiêu thụ vì thế trở nên chặt chẽ hơn.


Chuyển đổi số trong nông nghiệp cũng mở ra cơ hội bình đẳng hơn cho người dân vùng sâu, vùng xa. Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh, kết nối internet và tinh thần học hỏi, nông hộ nhỏ vẫn có thể tiếp cận thị trường rộng lớn, tăng thu nhập và hướng tới thoát nghèo bền vững.


Sử dụng phần mềm, ứng dụng dùng chung để tăng hiệu quả


Thực tiễn cho thấy, phủ sóng hạ tầng chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ là khả năng khai thác hạ tầng để tạo ra giá trị kinh tế - xã hội. Gia Lai đã sớm nhận diện điều này và triển khai đồng bộ các hệ thống thông tin trọng yếu phục vụ quản lý, điều hành. Hơn 2.000 thủ tục hành chính được cung cấp trực tuyến, nhiều thủ tục đạt mức độ 4, giúp người dân và doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí.


Ở khu vực doanh nghiệp, 100% doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng hóa đơn và kê khai thuế điện tử, tạo nền tảng minh bạch tài chính và quản trị hiện đại. Khi các hệ thống này được liên thông, dữ liệu trở thành “nguyên liệu” cho ra quyết định, từ quản lý ngân sách đến hoạch định chính sách phát triển.


Không dừng ở hạ tầng nền tảng, Gia Lai còn hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ cao và đổi mới sáng tạo của khu vực, thu hút các dự án về AI, dữ liệu lớn, công nghiệp số và bán dẫn, tạo “cực tăng trưởng” mới cho miền Trung - Tây Nguyên.


Để triển khai đầu tư tránh trùng lặp, chồng chéo các hạ tầng số, phần mềm, ứng dụng dùng chung cấp trung ương, tỉnh, xã, Gia Lai đã xây dựng, phát triển các hệ thống, nền tảng số phục vụ thực hiện xây dựng chính quyền điện tử, các hệ thống nền tảng được duy trì, vận hành tốt phục vụ công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp của cơ quan nhà nước trên môi trường số.


Cụ thể Hệ thống Văn phòng điện tử đã được triển khai tới 100% cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã và kết nối liên thông với Trục liên thông văn bản quốc gia, hệ thống văn bản điện tử của khối các cơ quan Đảng. Tỷ lệ văn bản trao đổi giữa các cơ quan, đơn vị nhà nước hoàn toàn dưới dạng điện tử đạt gần 100%; 100% các cơ quan nhà nước đã sử dụng chữ ký số chuyên dùng của tổ chức và 100% lãnh đạo cơ quan, đơn vị sử dụng chữ ký số cá nhân. Hệ thống thư điện tử công vụ của tỉnh được duy trì hoạt động ổn định (địa chỉ mail.gialai.gov.vn), 100% cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã được cấp hộp thư điện tử công vụ.


Gia Lai đã phát triển các ứng dụng, dịch vụ trong nội bộ của cơ quan nhà nước. Tỉnh Gia Lai đã triển khai các hệ thống như: Hệ thống thông tin quản lý trường học; hệ thống thông tin quản lý cán bộ, công chức, viên chức; hệ thống thông tin phòng chống thiên tai; hệ thống thông tin quản lý đất đai; hệ thống giám sát khai thác khoáng sản; hệ thống thông tin quản lý công tác đầu tư công của tỉnh; hệ thống thông tin tài chính; hệ thống thông tin kinh tế - xã hội 2 cấp; hệ thống tiếp nhận, giải đáp các khó khăn, vướng mắc của các địa phương; hệ thống thông tin cấp xã tỉnh Gia Lai (https://xa.gialai.gov.vn), trong đó, đã cập nhật dữ liệu nhân sự chủ chốt, dữ liệu về chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2025 - 2030 của toàn bộ 135 xã, phường trên địa bàn tỉnh, tạo thành kênh thông tin chính thức phục vụ quản lý, điều hành, đồng thời đáp ứng nhu cầu khai thác của tổ chức, cá nhân.


Gia Lai đã phát triển ứng dụng dịch vụ người dân, doanh nghiệp, hoàn thành liên thông dữ liệu kết quả Giấy chứng sinh, Giấy báo tử đối với 100% cơ sở y tế trực thuộc Sở Y tế phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ công liên thông “Đăng ký khai sinh - Đăng ký thường trú - Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi” trên địa bàn tỉnh (dịch vụ công thiết yếu của Đề án 06). Tỉnh đã hoàn thành việc liên thông dữ liệu kết quả Giấy khám sức khỏe lái xe đối với 100% cơ sở y tế có chức năng khám sức khỏe giấy phép lái xe trên địa bàn tỉnh phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình “Cấp đổi giấy phép lái xe”.


Các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn tỉnh đã triển khai hệ thống thông tin quản lý bệnh viện (HIS); các đơn vị khám, chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế đã triển khai số hóa bệnh án điện tử. 100% các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế trên địa bàn tỉnh Bình Định (cũ) đã hoàn thiện Bệnh án điện tử, các cơ sở trên địa bàn tỉnh Gia Lai.


Gia Lai đã nghiên cứu cơ chế cho phép các doanh nghiệp triển khai, đảm nhận các dịch vụ công của cơ quan nhà nước. Kết quả Ngân hàng BIDV, AGribank đã tổ triển khai “Đại lý dịch vụ công trực tuyến” với 91 điểm trên toàn tỉnh (gồm 36 điểm của Ngân hàng BIDV và 55 điểm của Ngân hàng Agribank).


Gia Lai đã thuê doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Bưu chính công ích đảm nhận nhiệm vụ “Tiếp nhận, hướng dẫn, số hóa hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính” tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh.


Doanh nghiệp viễn thông - “bà đỡ” của hạ tầng và hệ sinh thái số


Trong quá trình phát triển hạ tầng số tại Gia Lai, vai trò của các doanh nghiệp viễn thông mang tính quyết định. Đầu tư hạ tầng ở vùng miền núi, nơi mật độ dân cư thấp và khả năng sinh lời không cao, đòi hỏi sự kiên trì và tầm nhìn dài hạn. Việc các doanh nghiệp tiếp tục phủ sóng internet di động đến những thôn còn “trắng sóng” cho thấy sự đồng hành với mục tiêu phát triển chung của địa phương.


Một dấu mốc đáng chú ý là việc UBND tỉnh Gia Lai ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam về chuyển đổi số giai đoạn 2025 - 2030, định hướng đến năm 2035. Trên nền hạ tầng đã được đầu tư, VNPT tiếp tục triển khai các hệ thống chính quyền số, y tế số, giáo dục số, nông nghiệp số và hóa đơn điện tử, góp phần hoàn thiện hệ sinh thái số của tỉnh.


Tại lễ ký kết, ông Tô Dũng Thái - Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn VNPT - cho biết, việc ký kết thỏa thuận hợp tác với UBND tỉnh Gia Lai mở ra nhiều cơ hội để triển khai các nhiệm vụ phát triển công nghệ thông tin và chuyển đổi số một cách toàn diện.


"VNPT sẽ tập trung nguồn lực, khẩn trương triển khai các nhiệm vụ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh tại tỉnh Gia Lai", ông Thái cam kết.


Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Phạm Anh Tuấn đánh giá cao năng lực của VNPT trong thúc đẩy phát triển 3 trụ cột chuyển đổi số gồm chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Ông khẳng định tỉnh sẽ tạo điều kiện tốt nhất để VNPT khảo sát, phân tích hiện trạng, tư vấn hỗ trợ các ngành, địa phương trong các lĩnh vực hợp tác.


Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai đề nghị VNPT ưu tiên phát triển hạ tầng băng rộng chất lượng cao trên toàn tỉnh, xây dựng hệ thống viễn thông và công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, liên thông, bảo đảm an toàn; mở rộng phủ sóng 5G tại các địa bàn trọng yếu, vùng sâu vùng xa để bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, phục vụ phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng; duy trì các trạm phát sóng dự phòng để bảo đảm thông tin liên lạc trong trường hợp xảy ra thiên tai, bão lũ.


Ông Phạm Anh Tuấn kỳ vọng VNPT - với lợi thế là đơn vị đứng chân trên địa bàn - sẽ trở thành "cánh tay nối dài" của Sở Khoa học và Công nghệ, góp phần đưa Gia Lai phát triển nhanh, mạnh trong tiến trình chuyển đổi số; ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của giai đoạn mới.


Nhìn tổng thể, những bước đi của Gia Lai cho thấy chuyển đổi số không phải là “đặc quyền” của các đô thị lớn. Với cách tiếp cận đúng - coi hạ tầng số là nền móng, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, dữ liệu là tài nguyên cốt lõi - một tỉnh miền núi vẫn có thể tạo dựng nền tảng vững chắc cho kinh tế số và xã hội số.


Việc phủ cáp quang đến 100% xã, mở rộng sóng di động đến thôn, làng, triển khai đồng bộ hóa đơn điện tử, thương mại điện tử, địa chỉ số và tổ công nghệ số cộng đồng đã giúp Gia Lai từng bước thu hẹp khoảng cách số. Quan trọng hơn, những nỗ lực này đang dần chuyển hóa thành lợi ích cụ thể cho người dân và doanh nghiệp, từ tiếp cận dịch vụ công thuận tiện hơn đến mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.


Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia đang được thúc đẩy mạnh mẽ, Gia Lai có thể xem là một ví dụ cho thấy: nếu hạ tầng số được coi là nền móng, nếu con người được đặt ở trung tâm và nếu chính quyền - doanh nghiệp - cộng đồng cùng đồng hành, thì chuyển đổi số hoàn toàn có thể trở thành động lực phát triển bền vững, ngay cả ở những địa phương còn nhiều khó khăn.









Ha tang so o Gia Lai: Tu ‘phu song ket noi’ den nen tang phat trien kinh te so


Trong buc tranh chuyen doi so quoc gia, Gia Lai dang cho thay mot cach di rieng: than trong, bai ban va ben bi, lay ha tang so lam nen mong, lay nguoi dan va doanh nghiep lam trung tam.

Hạ tầng số ở Gia Lai: Từ ‘phủ sóng kết nối’ đến nền tảng phát triển kinh tế số

Trong bức tranh chuyển đổi số quốc gia, Gia Lai đang cho thấy một cách đi riêng: thận trọng, bài bản và bền bỉ, lấy hạ tầng số làm nền móng, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.
Hạ tầng số ở Gia Lai: Từ ‘phủ sóng kết nối’ đến nền tảng phát triển kinh tế số
www.tincongnghe.net
Giới thiệu cho bạn bè
  • gplus
  • pinterest

Bình luận

Đăng bình luận

Đánh giá: