Chuyển đổi số ngành tài nguyên và môi trường trong kỷ nguyên dữ liệu

Chuyển đổi số đang mở ra một hướng đi mới cho ngành tài nguyên và môi trường: từ quản lý dựa trên hồ sơ giấy và báo cáo chậm trễ, sang quản trị dựa trên dữ liệu số, bản đồ số và giám sát thời gian thực.


image001 (13).png
Mô hình trồng dưa lưới theo công nghệ mới của VNPT Technology.

Mới đây, Chính phủ đã yêu cầu thực hiện chiến dịch 90 ngày triển khai trên phạm vi toàn quốc, Chiến dịch làm giàu, làm sạch cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về đất đai do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Bộ Công an tổ chức với mục tiêu kết nối, xác thực thông tin người sử dụng đất với CSDL quốc gia về dân cư. Bộ Công an đã phối hợp tổ chức đối khớp hơn 87 triệu lượt dữ liệu, qua đó xác thực thành công thông tin của hơn 38 triệu thửa đất.


Cùng với đó, lần đầu tiên Mã định danh duy nhất thửa đất được tạo lập cho gần 70 triệu thửa, khắc phục tình trạng trùng lặp, thiếu thống nhất, tạo nền tảng tích hợp với Nền tảng địa chỉ số quốc gia và các hệ thống định danh khác.


Khi dữ liệu được làm sạch và vận hành thông suốt, nhiều địa phương đã chủ động tái cấu trúc quy trình, cắt giảm mạnh thời gian và thành phần hồ sơ giấy. Một số tỉnh như An Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hải Phòng, Đắk Lắk đã triển khai toàn trình điện tử nhiều thủ tục, rút ngắn từ 30% thời gian giải quyết trở lên so với quy định.


CSDL đất đai được kết nối với Cổng dịch vụ công, cơ quan thuế, hệ thống giao dịch bảo đảm…, hình thành quy trình khép kín, minh bạch, giảm chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp.


Trong thời gian ngắn, khối lượng công việc triển khai là rất lớn: rà soát, phân loại gần 50 triệu thửa đất tại hơn 2.300 đơn vị hành chính cấp xã; thu thập, số hóa hàng triệu Giấy chứng nhận; xác thực thông tin chủ sử dụng đất với CSDL quốc gia về dân cư; đồng bộ dữ liệu từ địa phương về Trung ương và kết nối liên thông với các hệ thống dữ liệu quốc gia.


Kết quả đã vượt mục tiêu đề ra. Tổng số thửa đất được rà soát, làm giàu, làm sạch đạt hơn 61,7 triệu thửa, trong đó 24,3 triệu thửa đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí “đúng - đủ - sạch - sống”, sẵn sàng kết nối, chia sẻ và khai thác dùng chung. Hơn 18,7 triệu thửa đã được xác thực thông tin chủ sử dụng đất; số còn lại đang tiếp tục được rà soát, chỉnh lý.


Đáng chú ý, 100% tỉnh, thành phố đã hoàn thành đồng bộ CSDL đất đai về CSDL quốc gia, với gần 98% tổng số thửa đất được tích hợp. Lần đầu tiên, dữ liệu đất đai trên phạm vi toàn quốc được tập trung, thống nhất, tạo điều kiện để vận hành theo thời gian thực.


Chia sẻ về vấn đề này, ông Mai Văn Phấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đất đai, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, CSDL đất đai được xây dựng qua nhiều giai đoạn, nhiều mô hình và phần mềm khác nhau, với chất lượng dữ liệu không đồng đều. Trước khi triển khai Chiến dịch, cả nước có hơn 62 triệu thửa đất đã có dữ liệu ở các định dạng khác nhau, nhưng chỉ khoảng 39% đáp ứng yêu cầu “đúng - đủ - sạch - sống”; phần lớn còn thiếu thông tin, trùng lặp, sai lệch hoặc chưa được xác thực với CSDL quốc gia về dân cư .


Ông Mai Văn Phấn cho rằng, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn tiếp theo là duy trì, vận hành và phát huy hiệu quả CSDL đất đai đã được làm giàu, làm sạch, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Trọng tâm là sử dụng ngay dữ liệu đã có để phục vụ quản lý đất đai, chia sẻ, kết nối liên thông với các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội và giải quyết thủ tục hành chính của người dân, doanh nghiệp.


Từ câu chuyện trên cho thấy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, tài nguyên và môi trường (TN&MT) là một trong những lĩnh vực chịu áp lực cải cách lớn nhất. Đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường không khí - nước - đất, biến đổi khí hậu và thiên tai không chỉ là vấn đề kỹ thuật quản lý, mà ngày càng trở thành yếu tố quyết định năng lực phát triển bền vững, an ninh kinh tế và ổn định xã hội của mỗi quốc gia.


Tại Việt Nam, trong nhiều năm, công tác quản lý tài nguyên và môi trường TN&MT từng bị đánh giá là phân mảnh, nặng về thủ công, thiếu dữ liệu thời gian thực, khó liên thông giữa các cấp chính quyền và giữa các ngành. Điều này không chỉ làm gia tăng nguy cơ thất thoát tài nguyên, vi phạm pháp luật, mà còn hạn chế khả năng ra quyết định dựa trên bằng chứng khoa học.


Chuyển đổi số đang mở ra một hướng đi mới cho ngành TN&MT: từ quản lý dựa trên hồ sơ giấy và báo cáo chậm trễ, sang quản trị dựa trên dữ liệu số, bản đồ số và giám sát thời gian thực. Đây không đơn thuần là ứng dụng công nghệ, mà là quá trình tái thiết mô hình quản lý tài nguyên theo hướng minh bạch, chủ động, phòng ngừa rủi ro và thân thiện với môi trường.


Đất đai là tài nguyên đặc biệt, vừa mang giá trị kinh tế, vừa gắn liền với ổn định xã hội và quyền lợi của người dân. Trong nhiều năm, việc quản lý đất đai tại Việt Nam gặp không ít thách thức do hồ sơ phân tán, bản đồ giấy lạc hậu, dữ liệu không đồng bộ giữa các địa phương, gây khó khăn cho quy hoạch, cấp phép, thu hồi và giải quyết tranh chấp.


Chuyển đổi số trong lĩnh vực đất đai bắt đầu từ việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai tập trung, tích hợp thông tin về thửa đất, chủ sử dụng, quy hoạch, mục đích sử dụng, biến động theo thời gian. Khi dữ liệu này được số hóa và kết nối với hệ thống bản đồ số GIS, công tác quản lý đất đai không còn phụ thuộc vào hồ sơ rời rạc, mà được trực quan hóa trên nền tảng số.


Điểm then chốt của mô hình này là tính liên thông và cập nhật theo thời gian thực. Mỗi biến động đất đai - từ chuyển nhượng, thế chấp, thay đổi mục đích sử dụng đến thu hồi phục vụ dự án - đều được ghi nhận và đối chiếu tự động. Điều này giúp giảm đáng kể sai sót hành chính, hạn chế tình trạng “một mảnh đất nhiều hồ sơ”, đồng thời tăng cường minh bạch trong quản lý.


Về mặt quy hoạch, bản đồ số cho phép các cơ quan quản lý chồng lớp dữ liệu đất đai với hạ tầng giao thông, dân cư, môi trường, tài nguyên nước, từ đó đánh giá tác động tổng thể trước khi phê duyệt các dự án lớn. Đây là bước tiến quan trọng, giúp quy hoạch không còn là “bản vẽ tĩnh”, mà trở thành công cụ động hỗ trợ ra quyết định.


Đối với người dân và doanh nghiệp, hệ thống dữ liệu đất đai số mở ra khả năng tiếp cận thông tin nhanh chóng, giảm thời gian và chi phí thủ tục, đồng thời hạn chế tiêu cực phát sinh từ sự bất cân xứng thông tin giữa cơ quan quản lý và người sử dụng đất.


Sử dụng dữ liệu viễn thám và giám sát số vào quản lý


Nếu cơ sở dữ liệu đất đai là “xương sống”, thì dữ liệu viễn thám chính là “đôi mắt trên cao” của ngành TN&MT trong kỷ nguyên số. Với sự phát triển của vệ tinh quan sát Trái đất, công nghệ viễn thám cho phép thu thập dữ liệu diện rộng, liên tục, khách quan về bề mặt đất, rừng, mặt nước, bờ biển và khu vực khai thác tài nguyên.


Trong quản lý khoáng sản, viễn thám giúp phát hiện sớm các điểm khai thác trái phép thông qua việc so sánh ảnh vệ tinh theo chu kỳ thời gian. Những biến đổi bất thường về địa hình, màu sắc đất đá hay dòng chảy có thể được hệ thống tự động cảnh báo, thay vì chờ đến khi vi phạm đã gây hậu quả nghiêm trọng.


Đối với tài nguyên rừng, dữ liệu viễn thám đóng vai trò then chốt trong giám sát mất rừng, suy thoái rừng và đánh giá hiệu quả các chương trình bảo vệ, phục hồi rừng. Việc theo dõi diễn biến rừng theo thời gian thực giúp cơ quan quản lý chuyển từ thế bị động xử lý vi phạm sang chủ động phòng ngừa và can thiệp sớm.


Một giá trị quan trọng khác của viễn thám là khả năng hỗ trợ đánh giá tác động môi trường ở quy mô lớn. Thay vì dựa hoàn toàn vào báo cáo của chủ dự án, cơ quan quản lý có thể đối chiếu dữ liệu vệ tinh để kiểm chứng mức độ tác động đến đất, nước và hệ sinh thái xung quanh.


Khi dữ liệu viễn thám được tích hợp với trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn, ngành TN&MT có thể xây dựng các mô hình dự báo, nhận diện xu hướng suy thoái tài nguyên, từ đó điều chỉnh chính sách khai thác theo hướng bền vững hơn.


Một trong những bước tiến rõ nét nhất của chuyển đổi số trong ngành tài nguyên và môi trường là sự phát triển của hệ thống quan trắc môi trường trực tuyến, ứng dụng công nghệ IoT, cảm biến và nền tảng dữ liệu số.


Thay vì phụ thuộc vào các đợt lấy mẫu định kỳ, dữ liệu môi trường hiện nay có thể được thu thập liên tục theo thời gian thực, từ chất lượng không khí, nước mặt, nước ngầm đến tiếng ồn đô thị. Điều này giúp cơ quan quản lý nắm bắt kịp thời các diễn biến bất thường, giảm độ trễ trong phản ứng chính sách.


Đối với môi trường không khí, hệ thống quan trắc trực tuyến cho phép theo dõi nồng độ bụi mịn, khí độc tại các đô thị và khu công nghiệp, từ đó đưa ra cảnh báo sớm cho người dân. Dữ liệu này không chỉ phục vụ quản lý nhà nước, mà còn trở thành nguồn thông tin quan trọng cho y tế, giao thông và quy hoạch đô thị.


Trong quản lý nước, các trạm quan trắc tự động giúp giám sát chất lượng nước sông, hồ, nguồn cấp nước sinh hoạt và nước thải công nghiệp. Khi phát hiện thông số vượt ngưỡng cho phép, hệ thống có thể kích hoạt cảnh báo, hỗ trợ cơ quan chức năng xử lý kịp thời, hạn chế lan rộng ô nhiễm.


Một điểm đáng chú ý là tính công khai của dữ liệu môi trường. Khi thông tin quan trắc được chia sẻ rộng rãi, người dân và cộng đồng có thể tham gia giám sát, tạo áp lực xã hội tích cực đối với các tổ chức, doanh nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm. Đây là bước chuyển quan trọng từ quản lý “đóng” sang quản trị môi trường dựa trên minh bạch và đồng hành xã hội.


Hiện có rất nhiều doanh nghiệp đưa ra các giải pháp quản lý tài nguyên môi trường như Hệ thống thông tin địa lý (GIS), Ứng dụng GIS để quản lý, phân tích và hiển thị thông tin đất đai một cách trực quan và hiệu quả. Hiện nhiều công nghệ đã được sử dụng như viễn thám, ảnh vệ tinh, định vị toàn cầu (GPS) và máy bay không người lái để giám sát biến động đất đai, phát hiện các vi phạm về sử dụng đất hay công nghệ Blockchain để tăng cường tính minh bạch và bảo mật trong giao dịch đất đai, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn để phát hiện các xu hướng và mô hình trong quản lý đất đai.


Đại diện VNPT cho biết, đã đưa ra giải pháp VNPT iNRES - hệ sinh thái quản lý toàn diện tài nguyên số ngành TN&MT. VNPT iNRES tích hợp các hệ thống thông tin chuyên biệt như tài nguyên nước, khí tượng thủy văn, môi trường và đất đai, giúp các địa phương dễ dàng số hóa dữ liệu và kết nối thông suốt với các hệ thống chính quyền số khác.Với nền tảng công nghệ tiên tiến, VNPT iNRES không chỉ giúp tiết kiệm chi phí triển khai mà còn đảm bảo an toàn dữ liệu tối đa, hỗ trợ đắc lực trong việc ra quyết định quản lý tài nguyên một cách chính xác, nhanh chóng.


Chuyển đổi số để bảo vệ con người và hệ sinh thái


Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu và thiên tai. Trong bối cảnh này, chuyển đổi số không chỉ phục vụ quản lý tài nguyên, mà còn trở thành công cụ bảo vệ tính mạng, sinh kế và hệ sinh thái.


Thông qua việc tích hợp dữ liệu khí tượng, thủy văn, viễn thám và mô hình dự báo số, các hệ thống cảnh báo sớm có thể phát hiện nguy cơ lũ quét, sạt lở đất, hạn hán hay xâm nhập mặn với độ chính xác ngày càng cao. Thay vì cảnh báo chung chung, chính quyền có thể cung cấp thông tin chi tiết theo khu vực, thời điểm và mức độ rủi ro.


Công nghệ số cũng giúp cải thiện khả năng truyền thông cảnh báo tới người dân, thông qua ứng dụng di động, nền tảng trực tuyến và hệ thống thông tin cộng đồng. Điều này đặc biệt quan trọng ở các vùng dễ bị tổn thương, nơi việc chậm trễ thông tin có thể dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng.


Ở tầm chiến lược, dữ liệu số là nền tảng để xây dựng các kịch bản ứng phó biến đổi khí hậu dài hạn. Việc mô phỏng tác động của nước biển dâng, thay đổi dòng chảy hay nhiệt độ giúp nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định đầu tư hạ tầng, quy hoạch dân cư và chuyển đổi sinh kế phù hợp.


Quan trọng hơn, chuyển đổi số trong lĩnh vực này giúp thay đổi tư duy từ “ứng phó khi xảy ra thiên tai” sang quản trị rủi ro chủ động, đặt con người và môi trường vào trung tâm của phát triển.


Chuyển đổi số trong ngành TN&MT không chỉ là câu chuyện công nghệ, mà là quá trình tái cấu trúc toàn diện phương thức quản lý. Từ cơ sở dữ liệu đất đai, bản đồ số, viễn thám, quan trắc môi trường đến cảnh báo thiên tai, mỗi trụ cột đều góp phần hình thành một hệ sinh thái quản trị dựa trên dữ liệu.


Khi được triển khai đồng bộ, chuyển đổi số giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giảm thất thoát tài nguyên, tăng cường minh bạch, bảo vệ môi trường và nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây là bước đi tất yếu để hướng tới phát triển bền vững, nơi tài nguyên được sử dụng hiệu quả, môi trường được bảo vệ và con người được đặt ở vị trí trung tâm.


Thái Khang









Chuyen doi so nganh tai nguyen va moi truong trong ky nguyen du lieu


Chuyen doi so dang mo ra mot huong di moi cho nganh tai nguyen va moi truong: tu quan ly dua tren ho so giay va bao cao cham tre, sang quan tri dua tren du lieu so, ban do so va giam sat thoi gian thuc.

Chuyển đổi số ngành tài nguyên và môi trường trong kỷ nguyên dữ liệu

Chuyển đổi số đang mở ra một hướng đi mới cho ngành tài nguyên và môi trường: từ quản lý dựa trên hồ sơ giấy và báo cáo chậm trễ, sang quản trị dựa trên dữ liệu số, bản đồ số và giám sát thời gian thực.
Chuyển đổi số ngành tài nguyên và môi trường trong kỷ nguyên dữ liệu
www.tincongnghe.net
Giới thiệu cho bạn bè
  • gplus
  • pinterest

Bình luận

Đăng bình luận

Đánh giá: