PSX_20250514_172416.jpg
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Cần xây dựng nhận thức xã hội, đạo đức xã hội, văn hoá xã hội về sở hữu trí tuệ. Ảnh: Lê Anh Dũng

Cách đây 25 năm, vào năm 2000, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) chính thức đề xướng Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới, và ngày này được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 26/4/2021. Ngày Sở hữu trí tuệ (SHTT) thế giới nhằm nâng cao nhận thức toàn cầu về vai trò của SHTT (bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp...) trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST), phát triển KT-XH, tôn vinh những đóng góp của các nhà sáng chế, nghệ sĩ, doanh nhân và các tổ chức sáng tạo, khuyến khích các quốc gia xây dựng hệ sinh thái ĐMST dựa trên nền tảng bảo hộ và khai thác tài sản trí tuệ.


KHCN/ĐMST muốn tồn tại, phát triển bền vững thì phải thu hút được đầu tư cho nghiên cứu, phải thương mại hoá được các kết quả nghiên cứu. SHTT chính là cơ sở để thương mại hoá và thu hút đầu tư. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Khoa học công nghệ (KHCN)/ĐMST muốn tồn tại, phát triển bền vững thì phải thu hút được đầu tư cho nghiên cứu, phải thương mại hoá được các kết quả nghiên cứu. SHTT chính là cơ sở để thương mại hoá và thu hút đầu tư. Nó biến kết quả nghiên cứu thành tài sản, mà tài sản thì mới có thể định giá, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn. Tức là hình thành thị trường các kết quả nghiên cứu. Chỉ có thị trường mới tạo thành động lực phát triển lâu dài cho KHCN/ĐMST.


Kinh nghiệm một số nước cho thấy, ai mạnh về KHCN/ĐMST thì đều mạnh về SHTT. Mỹ thúc đẩy mạnh mẽ thương mại hoá kết quả nghiên cứu từ ngân sách nhà nước, vì họ chi rất nhiều (trên 3% ngân sách liên bang) và chi cho các dự án nghiên cứu lớn, mỗi năm trên 200 tỷ USD (gấp 200 lần hiện tại của Việt Nam). Hàn Quốc có hệ thống bảo hộ sáng chế rất mạnh, kèm theo là giáo dục sáng tạo, hỗ trợ đăng ký sáng chế, thương mại hoá, đã dẫn đến Hàn Quốc đứng top 3 thế giới về số lượng đơn sáng chế nộp/người. Israel có cơ chế chia lợi nhuận từ bằng sáng chế rất rõ ràng (nhà khoa học 40%, tổ chức nghiên cứu 40-50%, công ty thực hiện chuyển giao công nghệ 10-20%), đã tạo ra rất nhiều sáng chế được thương mại hoá, nhiều công ty được thành lập từ viện trường để triển khai sáng chế, làm cho viện trường, các tổ chức nghiên cứu có một phần lợi nhuận quay trở lại đầu tư cho nghiên cứu mới, giúp đổi mới liên tục, không phụ thuộc ngân sách nhà nước và trở thành máy phát sinh ra các tài sản trí tuệ quốc gia. Quốc gia phát triển thì có tới 80% tài sản là tài sản trí tuệ, tài sản vô hình.


Không có sở hữu trí tuệ sẽ không ai muốn làm nghiên cứu. Không có sở hữu trí tuệ sẽ không có luật chơi công bằng. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Không có SHTT sẽ không ai muốn làm nghiên cứu. Một nhà khoa học công bố kết quả nghiên cứu, người khác dùng nó để thương mại hoá trước, làm mất động lực nhà nghiên cứu. Doanh nghiệp nhỏ sáng tạo ra công nghệ mới có thể bị công ty lớn sao chép và mang ra chiếm lĩnh thị trường. Không có SHTT sẽ không có luật chơi công bằng.


Một xã hội trộm cắp nhiều là một xã hội không phát triển. Để trộm cắp về tài sản trí tuệ tràn lan thì sẽ không có sáng tạo trí tuệ, sẽ không có KHCN/ĐMST. Ăn cắp ý tưởng, sáng chế cũng như ăn cắp trong xã hội, là vấn đề vi phạm đạo đức xã hội, cần phải bị lên án. Chúng ta cần xây dựng nhận thức xã hội, đạo đức xã hội, văn hoá xã hội về SHTT.


Về một số tồn tại của SHTT Việt Nam


Chúng ta đang thiếu cả nhận thức, thể chế, thực thi, khai thác và nguồn lực. SHTT Việt Nam còn yếu so với yêu cầu phát triển kinh tế và ĐMST.


Về nhận thức xã hội: Doanh nghiệp và người dân chưa hiểu rõ vai trò của SHTT trong bảo vệ sáng tạo và thúc đẩy cạnh tranh. Tâm lý xem nhẹ vi phạm SHTT, dùng hàng giả, hàng nhái vẫn phổ biến.


Về bất cập của pháp luật: Chậm cập nhật so với sự phát triển của công nghệ mới (AI, dữ liệu số, sinh học). Một số quy định còn thiếu rõ ràng (xác định thế nào là tri thức truyền thống cần bảo hộ, tài sản trí tuệ trong sản phẩm số). Chế tài xử lý còn nhẹ, thiếu tính răn đe.


Hệ thống thực thi quyền SHTT còn yếu. Thiếu nhân lực chuyên sâu về SHTT trong lực lượng thanh tra, hải quan, công an, toà án. Giải quyết tranh chấp kéo dài, thủ tục phức tạp, tốn kém. Thực thi SHTT trên môi trường số chưa được quan tâm.


Năng lực khai thác tài sản trí tuệ còn hạn chế. Doanh nghiệp ít khai thác giá trị thương mại của tài sản trí tuệ (nhượng quyền, cấp phép, góp vốn bằng tài sản trí tuệ). Rất ít sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp được đăng ký ra nước ngoài. Việt Nam có số lượng văn bằng lớn, nhưng tỷ lệ thương mại hoá rất thấp (trung bình thế giới 5%, các nước phát triển tới 10%, Việt Nam chỉ khoảng 0,1%, bằng 1/50 của thế giới). Doanh nghiệp, viện trường đăng ký mang tính thủ tục, chưa khai thác để tạo giá trị. SHTT vẫn được xem là công cụ bảo vệ hình thức, chưa là tài sản chiến lược.


Về hạ tầng hỗ trợ SHTT: Hệ thống thông tin, tra cứu, định giá tài sản trí tuệ manh mún. Thiếu tổ chức cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp về tư vấn, bảo vệ, định giá, thương mại hoá tài sản trí tuệ.


Về đào tạo và phát triển nhân lực SHTT: Ít trường đại học đào tạo chuyên ngành SHTT. Chuyên gia thẩm định sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng còn thiếu cả về số lượng và chất lượng.


Về xử lý đồng bộ các vấn đề: Phổ cập nhận thức + Số hoá thực thi + Cập nhật luật chơi + Hỗ trợ khai thác tài sản trí tuệ


Phải đưa sở hữu trí tuệ vào giáo dục phổ thông, đại học, truyền thông mạnh mẽ cho doanh nghiệp, cộng đồng. Đào tạo sở hữu trí tuệ (kiến thức cơ bản về bảo hộ, sử dụng, định giá, cấp phép) phải là module bắt buộc trong các chương trình đào tạo khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Nâng cao nhận thức xã hội và doanh nghiệp: Đây là nền tảng gốc. Không có nhận thức đúng thì sẽ không đăng ký bảo hộ, không khai thác, không tôn trọng quyền của người khác. Có nhận thức thì mới sinh ra nhu cầu và áp lực cải cách các khâu. Phải đưa SHTT vào giáo dục phổ thông, đại học, truyền thông mạnh mẽ cho doanh nghiệp, cộng đồng. Đào tạo SHTT (kiến thức cơ bản về bảo hộ, sử dụng, định giá, cấp phép) phải là module bắt buộc trong các chương trình đào tạo khởi nghiệp, ĐMST.


Chuyển đổi số (CĐS) toàn diện hoạt động SHTT: Môi trường số là môi trường tốt nhất để thúc đẩy phát triển và quản lý hoạt động SHTT, cơ bản các khó khăn của SHTT sẽ được giải quyết khi chuyển lên môi trường số. Tăng cường thực thi, đặc biệt trên môi trường số. Tăng lực lượng thanh tra, công an chuyên trách. Xây dựng hệ thống cảnh báo, xử lý vi phạm trực tuyến. Xây dựng cổng quốc gia về quản lý vi phạm SHTT trực tuyến, cho phép tra cứu, tố giác, xử lý vi phạm online, tự động hoá truy vết vi phạm TMĐT. Đổi mới mạnh mẽ hệ thống pháp luật cho phù hợp với các công nghệ mới. Bổ sung quy định về SHTT trong AI, dữ liệu, tài sản số; có quy định rõ ràng về tri thức truyền thống, tài nguyên di truyền; tăng mức phạt vi phạm mang tính răn đe; giảm thủ tục đăng ký. Sửa luật SHTT để thêm một chương về chuyển hoạt động SHTT lên môi trường số, về SHTT số, sandbox về SHTT công nghệ mới.